NHỮNG ĐIỀU CẨN BIẾT VỀ VIỆC TIÊM PHÒNG (CHÍCH
NGỪA) CHO TRẺ EM
BS. BÙI XUÂN VĨNH
Cho đến nay, nhiều bà
mẹ đã thấy rõ lợi ích to lớn của việc tiêm phòng cho trẻ, và đã tích cực đưa trẻ
đi tiêm phòng. Tuy nhiên, vẫn còn 1 số bạn chưa hiểu rõ điều này. Chúng tôi đã
gặp không ít bà mẹ đã tỏ ra ngần ngại khi được động viên đưa trẻ đi tiêm phòng.
Một số bà mẹ thoái thác: "Cháu đi tiêm phòng mấy lần về đều bị phản ứng, phát
sốt lên, cả nhà sợ lắm, thôi xin BS miễn cho cháu kỳ này", hoặc có bà mẹ từ chối
hẳn: "gia đình chúng tôi thật không dám cho cháu đi chích ngừa lao nữa, vì trước
đây anh cháu đi chích về đã bị sưng hạch ở nách, phải chữa hàng tháng mới
khỏi..." hoặc "cháu uống thuốc ngừa bại liệt song thì bị tiêu chảy ngay, nên lần
này không dám cho cháu đi uống nữa"...
Xem xét các trường hợp
trên, chúng tôi đã thấy rằng hầu hết các trẻ đó đều không có
chống chỉ định trong tiêm phòng, nghĩa là vẫn có thể tiêm phòng trong an
toàn. Có những ngần ngại hoặc những từ chối trên kia, chỉ là do bà mẹ chưa hiểu
hết đầy đủ về việc tiêm phòng thôi.
Tác giả viết bài này với
mục đích trình bày để các bà mẹ hiểu rõ 2 điều: những phản ứng không mong muốn
của việc tiêm phòng và những chống chỉ định trong tiêm phòng; để các bà mẹ yên
tâm, tích cực cho trẻ đi tiêm phòng và hiểu rõ hơn những trường hợp nào thì cần
tránh tiêm phòng.
I. NHỮNG PHẢN ỨNG KHÔNG
MONG MUỐN CỦA VIỆC TIÊM PHÒNG
Tiêm phòng là một biện pháp
thực tế nhất, hiệu quả nhất để phòng bệnh: điều đó chắc mọi chúng ta đều rõ. Tuy
nhiên, cũng cần hiểu rằng, trong 1 số trường hợp, có thể xảy ra phản ứng ở trẻ.
Những phản ứng này, thầy thuốc không mong muốn có, gia đình lại càng không mong
muốn có, cho nên được gọi là
những phản ứng không mong muốn. Vậy những phản ứng đó ra sao? Có nguy hại
cho trẻ không? Có làm mất tác dụng phòng bệnh của thuốc không? Chúng ta sẽ lần
lượt xem xét từng vấn đề trên đây.
1. Phản ứng tại chỗ: Phản ứng này luôn xảy ra sau khi
tiêm phòng. Một số trẻ cảm thấy đau nơi tiêm, cảm giác
đau đó thường kéo dài từ 1 vài giờ đến 1 ngày, có thể làm các trẻ nhỏ
quấy khóc. Một số trẻ khác lại thấy nổi cục lên ở nơi tiêm. Cục này
thường nhỏ bằng hạt đậu, có khi viêm tấy đỏ, và có thể tồn tại tới 2-3 tuần mới
tiêu tan. Cũng có trẻ lại bị mẩn ngứa xung quanh nơi tiêm, có thể kéo dài
từ 3 tới 6 ngày. Những phản ứng này có thể xảy ra trong 5-10% số các trẻ tiêm
phòng và thường là tự khỏi.
2. Phản ứng toàn
thân: ở đây,
sốt
là chứng hay gặp nhất. Sau khi tiêm phòng 1 vài giờ hoặc 1 ngày, một số trẻ
có thể bị sốt: sốt thường nhẹ, nhưng cũng đôi khi sốt cao (trên 39o),
kèm theo tình trạng vật vã, quấy khóc, những trẻ lớn có thể kêu nhức đầu. Chứng
sốt này hay thấy hơn cả trong các trường hợp tiêm phòng bệnh thương hàn, tiêm
phòng bệnh ho gà. Cũng có trường hợp, sau khi tiêm phòng sau tới 5-12 ngày, trẻ
mới bị sốt: thông thường chứng sốt muộân này xảy ra sau khi tiêm phòng bệnh sởi,
đôi khi tiêm phòng bệnh quai bị. Tuy nhiên, tất cả các chứng sốt nói trên đều
khỏi trong 1-2 ngày, và thường là tự khỏi. Chỉ có một số ít trường hợp sốt cao
mới cần dùng đến thuốc hạ nhiệt (Paracetamol). Chúng tôi chưa hề gặp một tai
biến nào nguy hiểm trong các trường hợp sốt sau tiêm phòng nói trên.
3. Phản ứng ngoài da:
Ban mề đay, ngứa toàn thân, đôi khi có thể xảy ra ở một số trẻ có
tiền sử hay bị dị ứng, và có thể tồn tại từ 3 đến 6 ngày. Ngoài ra, tình trạng
phát ban (ban đỏ, gần giống như ban sởi, nhưng nhẹ hơn) có thể xảy ra 2-10%
trẻ tiêm phòng bệnh sởi hoặc bệnh rubêôn. Ban này thường xuất hiện trong khoảng
từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 12 sau khi tiêm phòng, có thể kèm theo sốt nhẹ, và
thường tự khỏi không cần dùng thuốc. Chỉ có một số trường hợp ban mề đay, nếu
gây khó chịu nhiều cho trẻ, thì có thể dùng thêm 1 số thuốc chống dị ứng (Sirop
Phenergan, Sirop Promethazine...).
4. Tai biến thần
kinh: Đây mới
là các tai biến đáng quan tâm hơn cả. Một số ít trẻ sau khi tiêm phòng bệnh ho
gà, có thể bị co giật (làm kinh) đôi khi kèm theo sốt cao. Các cơn co
giật này có thể xảy ra trong khoảng từ 30 phút đến 3 ngày sau khi tiêm phòng.
Phần lớn các trẻ này, qua điều tra, đã thấy có tiền sử có những cơn làm kinh từ
trước khi tiêm phòng ho gà. Tỷ lệ các trẻ làm kinh là khoảng 0,6%, nghĩa là
trong 1.000 trẻ em tiêm phòng ho gà, thì có khoảng 6 trẻ có thể lên cơn co giật
(hầu hết đã có tiền sử có những cơn làm kinh trước đó). Đại đa số trường hợp nói
trên đều qua khỏi; chúng tôi chưa gặp 1 trường hợp nào nguy hiểm đến tính mạng
trong số các trẻ nói trên. Tuy nhiên, cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng việc tiêm phòng
ho gà cho những trẻ đã có tiền sử có những cơn làm kinh trước đây, và cũng có
thể miễn cho các trẻ này. Nếu xét thấy không thật sự cần thiết. Ở một số quốc
gia, tình trạng này được coi là 1 "chống chỉ định" cho việc tiêm phòng ho gà.
Đặc biệt, một số ít trường
hợp bệnh não có thể xảy ra, cũng ở những trẻ tiêm phòng ho gà mà đã có
tiền sử có những cơn làm kinh trước đó. Những trẻ này thường nhỏ tuổi (dưới 6
tháng), sau khi tiêm có thể bị hôn mê, co giật, nôn ói... và có thể để lại di
chứng sau này. Tuy nhiên, số trẻ bị
bệnh não này rất hiếm: theo 1 công trình nghiên cứu quốc tế, thì chỉ
chiếm 1 phần triệu số trẻ tiêm phòng nói trên. Đối với những trẻ này, dĩ nhiên
nên cho miễn việc chích ngừa ho gà.
5. Hội chứng "rên la
kéo dài": Một số trẻ, thường ở lứa tuổi 3-6 tháng sau tiêm phòng
khoảng 6-10 giờ, bổng phát ra những tiếng rên, có khi
la hét
to lên. Sự rên la này có thể xảy ra ở khoảng dưới 3% số trẻ tiêm phòng.
Những tình trạng này có thể tự khỏi, nhưng nhiều khi thầy thuốc buộc phải dùng
thuốc an thần để làm yên trẻ, và để gia đình an tâm. Tác giả đã có trường hợp
phải dùng thuốc ngủ (Gerdenal) cho 1 trẻ la hét quá dữ. Tuy nhiên, tất cả các
trường hợp nói trên - chỉ do ảnh hưởng của thuốc tới thần kinh của trẻ - đều qua
khỏi không gây biến chứng gì.
6. Viêm hạch: Ở một số trẻ nhỏ, sau khi tiêm
thuốc phòng lao (BCG) có thể thấy nổi hạch ở nách, bên phía mới tiêm phòng: trẻ
đã có hiện tượng "viêm hạch nách do tiêm phòng lao". Viêm hạch này có thể xuất
hiện sau khi tiêm phòng khoảng 3 đến 5 tuần, và có 2 loại:
viêm hạch đơn thuần và viêm hạch hóa mủ.
Viêm hạch đơn thuần, là
hạch nổi sưng to lên thường to bằng hạt đậu phộng (hột lạc), sờ vào hơi cứng,
nhưng không có mủ ở trong, và thường sưng kéo dài khoảng 1 tháng rồi tự khỏi.
Theo 1 thống kê quốc tế, thì tình trạng
viêm hạch đơn thuần
này có thể xảy ra ở khoảng 6-12% số trẻ tiêm phòng lao, và thường không gây
khó chịu gì cho trẻ.
Loại viêm hạch hóa mủ
gây phiền phức hơn: hạch sưng tấy lên, to dần, có khi bằng 1 quả chanh, ấn
vào thấy lũng nhũng vì mủ ở trong. Hạch này có thể tự vỡ, mủ chảy ra, rồi sau
khi được rửa sạch hàng ngày, sẽ khỏi dần. Tuy nhiên, cũng có 1 số trường hợp
phải can thiệp bằng phẫu thuật: mổ ra, nạo mủ, rồi băng lại. Dĩ nhiên, cũng phải
rửa sạch hàng ngày. Loại viêm hạch hóa mủ này có thể xảy ra ở khoảng 0,1-4,3%
trẻ tiêm phòng lao, theo 1 thống kê quốc tế.
Thông thường, ở những trẻ
có viêm hạch như kể trên, tình trạng toàn thân vẫn tốt, trẻ không sốt, và vẫn có
thể tăng cân đều đặn như mọi trẻ bình thường khác.
Chứng viêm hạch nói trên -
tuy được coi là một phản ứng đặc biệt của việc tiêm phòng lao - nhưng cũng đôi
khi, rất hiếm, có thể xảy ra sau tiêm phòng thuốc khác, như sau khi tiêm phòng
bệnh sởi hoặc bệnh rubêôn.
Nói chung, các hiện tượng
viêm hạch kể trên đều không gây nguy hiểm gì cho trẻ và đều qua khỏi sau 1 thời
gian. Điều đáng ghi nhớ, là các hiện tượng đó không hề làm giảm tác dụng phòng
bệnh của việc tiêm phòng.
NHỮNG CHỐNG CHÆ ĐỊNH CỦA
TIÊM PHÒNG
Mặc dù việc tiêm phòng đôi
khi có thể gây ra những "phản ứng không mong muốn" như đã nói trên, nhưng vẫn
cần được khuyến khích, vì ích lợi to lớn của nó: phòng ngừa các bệnh nhiễm khuẩn
có thể gây nguy hiểm tới tính mạng của trẻ.
Tuy nhiên, cũng có một
trường hợp không nên tiêm phòng: đó là những trẻ đang ở trong tình trạng mà việc
tiêm phòng có thể gây ra những phản ứng nguy hiểm. Những trường hợp này được coi
là "chống chỉ định" của việc tiêm phòng.
Những trường hợp
"chống chỉ định" đó gồm có:
1. Chống chỉ định tạm
thời
- Trẻ đang sốt.
- Trẻ đang mắc 1 bệnh nhiễm
khuẩn cấp tính (viêm phổi, thương hàn, sởi v.v...).
- Trẻ mới khỏi các bệnh nói
trên, còn đang trong thời kỳ hồi sức.
- Đang bị viêm da mủ (bệnh
ngoài da, có mủ), hoặc bệnh chàm ngoài da (eczéma).
2. Chống chỉ định lâu
dài
- Trẻ đang mắc một bệnh mãn
tính đang tiến triển như lao phổi tiến triển, tràn dịch (có nước) màng phổi...,
nhất là đang có bệnh ở thận (như viêm thận mạn tính v.v...).
3. Một số chống chỉ định
đặc biệt
- Đối với tiêm phòng
lao: nên tránh cho
các trẻ sinh non còn quá yếu, quá thiếu cân; các trẻ đang bị bệnh cấp tính; các
trẻ đang bị bệnh ngoài da lan rộng, đang tiến triển.
- Đối với tiêm phòng
sởi: nên tránh cho
các trẻ đang bị bệnh bạch cầu (1 dạng ung thư máu), các trẻ đang bị suy dinh
dưỡng rất trầm trọng, các trẻ đang phải chữa bệnh bằng các loại thuốc corticoid
(như "đề xa": dexamethasone, v.v...).
- Đối với tiêm phòng
thương hàn: nên
tránh cho các trẻ đang bị bệnh ở thận, đang bị tiểu đường, hoặc đang trong 1
tình trạng có hiện tượng dị ứng trầm trọng (như đang trong thời kỳ có cơn suyễn
phế quản, v.v...).
Tại sao lại có những trường
hợp "chống chỉ định" như trên? Là vì - nói đơn giản - sau nhiều năm nghiên cứu,
đã thấy việc tiêm phòng, trong các trường hợp đó có thể gây ra những tai biến
đáng tiếc.
Để kết luận, có thể ghi nhớ
như sau: việc tiêm phòng cho trẻ luôn luôn là cần thiết, vì những lợi ích to lớn
trong việc bảo vệ sức khỏe của trẻ, những phản ứng tạm thời của 1 số trường hợp
không gây nguy hại cho trẻ, và cũng không làm giảm tác dụng phòng bệnh của việc
tiêm phòng. Chỉ duy có 1 số trường hợp cần tránh tiêm phòng - trong 1 thời gian
- thì cần ghi nhớ. Do đó, trước khi cho trẻ tiêm phòng, bà mẹ nên báo cho nhân
viên tiêm phòng biết về tình trạng sức khỏe trước đây và hiện nay của trẻ, để
nhân viên y tế cân nhắc trước khi tiêm phòng và có thể hoãn lại ngày tiêm nếu
cần thiết. Có thể tốt hơn nữa, nên hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi đưa trẻ
đến nơi tiêm phòng.