SIÊU ÂM MÀU MINH HỌA DÃN MẠCH TRONG HIỆN TƯỢNG VIÊM
(Vasodilatation Depicted in Inflammatory Conditions)
CYNTHIA RAPP, KEVIN JOHNSON, THOMAS STAVROS,
Trong Advanced Ultrasound, Diagnostic Imaging, March 1998, pp.22-25
NGUYỄN THIỆN HÙNG dịch
Nhiều trường hợp viêm trong cơ thể có triệu chứng siêu âm tương tự nhau. Tiến trình viêm không chỉ dính dáng đến cơ quan bị viêm mà còn ảnh hưởng mô xung quanh nữa. Triệu chứng siêu âm bao gồm hiện tượng phù nề mô liên kết và hiện tượng tăng tưới máu do viêm trong và quanh cơ quan bị viêm.
Siêu âm màu là phương tiện khảo sát huyết động học của hiện tượng viêm độc nhất và trong thời gian thực.
Dãn mạch và tăng tính thấm mạch máu là dấu hiệu sinh bệnh học xác nhận hiện tượng viêm. Các biến đổi này gây ra đỏ, nóng và sưng. Hình ảnh siêu âm của tăng tính thấm mạch máu là cơ quan sưng lên, dày ra và tăng sinh echo mô liên kết lân cận.
Dãn mạch có triệu chứng siêu âm Doppler là tăng toàn bộ lưu lượng kết hợp với kiểu dòng chảy trở kháng thấp (low-resistance flow pattern) của phổ động mạch có tăng thì tâm trương (increased diastolic arterial flow). Phổ tĩnh mạch cũng tăng và trở nên dạng sóng đập (pulsatile).
Phù nề do viêm có hình ảnh cơ quan lớn ra và sự sinh echo biến đổi; mô liên kết và mô mỡ trong và quanh cơ quan viêm dày lên; tăng sinh echo mô liên kết trong và quanh cơ quan bị viêm; và tụ dịch quanh cơ quan viêm.
Lưu lượng máu tới cơ quan bị viêm và mô xung quanh biểu hiện nhiều cách:
+ Tăng số lượng mạch máu trên siêu âm màu.
+ Phổ Doppler giảm trở kháng động mạch.
+ Mất nốt tâm trương sớm bình thường.
+ Phổ Doppler tăng tốc độ lưu lượng động mạch và tĩnh mạch.
+ Phổ tĩnh mạch liên tục bị giảm hay mất hiện tượng thay đổi theo nhịp thở.
+ Phổ tĩnh mạch có dạng đập.
Nhiều loại hiện tượng viêm với hình ảnh siêu âm đặc biệt trong chẩn đoán có độ nhạy: viêm mô tế bào, viêm ruột dư cấp, viêm túi thừa cấp, bệnh Crohn cấp, viêm túi mật cấp và viêm tinh hoàn-mào tinh hoàn cấp.
Viêm mô tế bào: Ðây thường là chẩn đoán lâm sàng dù siêu âm đôi khi được yêu cầu khám để loại trừ tắc tĩnh mạch sâu và tạo ápxe. Dùng viêm mô tế bào như là kiểu mẫu tiến trình viêm, siêu âm màu cho thấy mô mềm sưng lên, phù khoảng kẽ và luôn có tăng tưới máu. Siêu âm màu còn cho thấy các dấu hiệu viêm ở các cơ quan sâu khó tìm và khó sờ.
Viêm ruột dư cấp: Ruột dư phù nề và lớn ra, lòng căng chứa dịch và có sỏi phân là các dấu hiệu siêu âm đã biết. Nhiều bệnh nhân có mạc treo ruột dư và mỡ xung quanh phù nề. Mô dày lên, phù nề và tăng sinh echo làm tăng chú ý ruột dư bị viêm.
Ruột dư bình thường không thể tìm được phổ mạch máu. Tuy nhiên viêm ruột dư cấp thấy có phổ động mạch có trở kháng cao, tăng lưu lượng máu. Dạng sóng động mạch cho thấy giảm sức cản. Phổ tĩnh mạch liên tục và có khi có dạng đập. Khi ruột dư hoại tử thì có phổ không mạch trong mạc treo ruột dư và mô mỡ xung quanh.
Viêm túi thừa cấp: Dày vách ruột già do phù nề và co thắt là dấu hiệu viêm túi thừa đã biết trong khi phù mạc treo đại tràng và mô mỡ xung quanh là dấu hiệu siêu âm nổi bật. Như trong viêm ruột dư điều này mở cửa sổ siêu âm bằng cách dời chỗ các quai ruột chứa hơi xung quanh. Tăng sinh echo càng làm rõ hơn vách đại tràng dày với echo kém và túi thừa bị viêm.
Cũng tương tự như trường hợp ruột dư bình thường, mạc treo đại tràng và vách ruột già bình thường không thấy phổ mạch máu. Khi viêm túi thừa, tưới máu vách đại tràng và mạc treo có gia tăng, dạng sóng động mạch giảm trở kháng bất thường, phổ tĩnh mạch mất thay đổi theo nhịp thở và có dạng đập.
Bệnh Crohn tiến triển: Dày vách ruột là triệu chứng đã biết nhưng không nhất thiết tương ứng với hiện tương viêm tiến triển. Bệnh Crohn có diễn biến xuyên vách nên trong giai đoạn hoạt động làm cho phù mạc treo. Có thể có kết hợp với bệnh hạch mạc treo. Phổ mạch máu tăng trong vách ruột và mạc treo trong giai đoạn viêm tiến triển.
Như trong mọi tiến trình viêm khác dạng phổ động mạch là dạng sóng đập, giảm trở kháng và tăng phổ tĩnh mạch cùng với mất thay đổi theo nhịp thở. Có thể có tăng phổ trong hạch viêm mạc treo. Tăng tưới máu trong bệnh Crohn thường quá đáng hơn các trường hợp viêm khác.
Viêm túi mật cấp: Triệu chứng dày vách túi mật là dấu hiệu siêu âm đã biết nhưng không nhạy và không đặc hiệu, là th phát của hiện tượng phù nề mô liên kết quanh túi mật. Phù nề quanh túi mật và dày vách túi mật có thể kết hợp lại làm thành một vùng quanh túi mật dày, có lớp và có echo hỗn hợp. Trong nhiều trường hợp phổ mạch máu bình thường có thể thấy trong đoạn trước của động mạch túi mật ở cạnh ống dẫn túi mật và cổ túi mật. Tuy nhiên bất thường lại thấy có phổ ở 2/3 xa túi mật hoặc có nhiều nhánh trong vách phần thân và đáy túi mật. Trong viêm túi mật cấp phổ các vùng trên thường có kiểu trở kháng thấp như đã mô tả phần trước.
Viêm tinh hoàn-mào tinh hoàn cấp: Nhiễm trùng bìu gây nên phù nề thừng tinh, tinh hoàn và mào tinh hoàn. Phân bố hiện tượng sưng thay đổi tùy vào đường nhiễm trùng và mức độ liên can của mỗi loại cấu trúc. Trong một số trường hợp khó mà phân biệt được phù nề do xoắn thừng tinh gây ra.
Doppler giúp phân biệt giữa xoắn và nhiễm trùng bằng cách cho thấy khi nào phổ mạch máu tinh hoàn tăng, giảm hoặc không có phổ. Trong nhiễm trùng hiện tượng tăng tưới máu song song với hiện tượng phù nề, rõ nhất trong các mô viêm. Tăng tưới máu mào tinh hoàn nhiều hơn tinh hoàn gợi ý là viêm mào tinh hoàn, trong khi tăng tưới máu tinh hoàn là viêm tinh hoàn. Tuy nhiên có một điều nhất định phải biết là phù nề với gia tăng phổ có thể gặp trong xoắn thừng tinh tự tháo và xoắn thừng tinh cách hồi.
CÁC NGOẠI LỆ:
Mặc dù triệu chứng hình thái học của hiện tượng viêm nhiều cơ quan tương tự nhau, về triệu chứng Doppler có một số ngoại lệ. Hai thí dụ của ngoại lệ sau đây là viêm gan cấp và viêm đài bể thận cấp.
+ Viêm gan cấp: Bệnh này làm gan lớn dù đây là triệu chứng siêu âm không chính xác và không đặc hiệu. Viêm gan cũng gây ra phù nề của mô liên kết lỏng lẻo trong và quanh gan. Các cấu trúc có chứa mô liên kết dạng xốp gồm hố túi mật, dây chằng liềm, dây chằng tĩnh mạch, cửa gan và khoảng quanh chỗ phân nhánh chính tĩnh mạch cửa.
Doppler viêm gan cấp không thấy có hyperemia vì bình thường gan là cơ quan tương đối lớn, giường trở kháng động mạch thấp và phổ tĩnh mạch gan dạng đập, cả hai yếu tố này đều cũng gặp trong tăng tưới máu do viêm.
+ Viêm đài bể thận cấp: có thể làm thận lớn khu trú hay lan tỏa. Nó có thể làm thay đổi echo vỏ thận, dày nội mạc niệu (uroepithelium), gây tụ dịch quanh thận và phù nề xoang thận và mỡ quanh thận. Như trường hợp của gan, bình thường thận có thể tích lớn, giường trở kháng động mạch thấp và phổ tĩnh mạch liên tục. Bởi vậy Doppler không hiệu quả khi tìm tăng tưới máu do viêm trong trường hợp viêm đài bể thận cấp.
Sinh bệnh học hiện tượng viêm tương đối giống nhau. Các đáp ứng không tùy thuộc mô và áp dụng được cho cơ quan khác có cấu trúc và vị trí giải phẫu khác. Tuy nhiên, hình ảnh siêu âm lớn ra và thay đổi cấu trúc cơ quan vẫn còn là triệu chứng không đặc hiệu và có thể do nhiễm trùng, viêm, tân sinh và quá sản. Tăng tưới máu do viêm và phù mô liên kết trong và xung quanh cơ quan viêm có độ đặc hiệu cao hơn.
Những dấu hiệu này xãy ra sớm trong đáp ứng viêm và xãy ra muộn hơn trong tiến trình tân sản. Khám cẩn thận hiện tượng tăng tưới máu có hai lý do. Dấu hiệu tăng tưới máu mô viêm và phù nề mô làm gia tăng độ đặc hiệu chẩn đoán và phù nề mô liên kết là bằng chứng siêu âm sớm nhất và rõ ràng nhất cho hiện tượng viêm, báo động cho người khám cần tìm ra các nguyên nhân còn che khuất.