BIẾN CHỨNG CỦA PHÁ THAI
BS. TRỊNH TIẾN ĐẠT
BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TỪ DŨ
I. BIẾN CHỨNG TỨC THÌ
1/ Tai biến gây tê -
gây mê
Trong gây mê có tai biến khoảng 1/ 2.000 và tử vong là 1/ 8.000. Nguyên nhân
tử vong có thể do không tôn trọng các chống chỉ định của gây mê, một phản xạ
ngưng tim hoặc một sốc dị ứng.
Trong khi gây tê bằng Xylocaine, nếu thuốc tê vào mạch máu có thể gây ra các
cơn co giật theo sau là ngạt thở, sốc phản vệ hoặc truî mạch đơn thuần với
nhịp tim chậm. Đề phòng tai biến này cần phải luôn luôn hút ống chích trước
khi tiêm và không bao giờ sử dụng ở liều cao. Các tai biến này hiếm gặp từ
khi sử dụng liều dưới 10 ml Xylocaine 1% và các triệu chứng thường gặp là
nhẹ như : chóng mặt, ù tai, ngủ gật.
2/ Xuất huyết
Xảy
ra chủ yếu trong lúc can thiệp và trong vòng một giờ khi phá thai trước 8
tuần vô kinh. Khoảng 0.05 % có xuất huyết quá 500 ml. Chúng có thể là hậu
quả của tử cung xơ hoá, rối loạn đông máu và của hút thai không trọn. Tần số
của chúng tăng theo tuổi thai và gây tê làm giảm nguy cơ này. Các thống kê ở
Mỹ cho thấy có 0.32 % xuất huyết do gây tê so với 0.54 % do gây mê. Thuốc
Méthergin tiêm một cách thường quy không có tác dụng cùng với thuốc tê làm
giảm mất máu nhưng kèm theo buồn nôn và nôn.
3/ Thủng tử cung
Chẩn đoán thủng tử cung không phải lúc nào cũng dễ, nhưng người ta có thể
nghi ngờ khi nong cổ tử cung, khi đo buồng tử cung, khi hút thai thấy xuyên
qua rất xa và không gặp tắc nghẽn một quácách dễ dàng. Siêu âm có thể giúp
chẩn đoán trong trường hợp này.
Trong tất cả các trường
hợp thủng, cần thiết phải làm cho tử cung trống
( lòng tử cung sạch ) để
cho phép cầm máu và dự phòng bội nhiễm.
Cần phân biệt hai trường
hợp :
Thủng trong quá trình
nong cổ tử cung : thực hiện phá thai phải được làm dưới kiểm tra siêu âm.
Nước đá dằn trên bụng và kháng sinh kết hợp với theo dõi thân nhiệt để tìm
sự nhiễm trùng vùng chậu, tuỳ tình hình sẽ cho siêu âm kiểm tra để loại đi
xuất huyết màng bụng và lập hướng xử trí tiếp theo.
Thủng trong quá trình hút
thai : nguy cơ thủng ruột là không được coi thường. Loại thủng này cần phải
được nội soi để kiểm tra kỹ ống tiêu hoá và thấy vết thương đường tiêu hoá
hoặc cơ tử cung. Thủng tử cung không được nhận biết hoặc các can thiệp sau
đó sẽ làm viêm phúc mạc cho một tiên lượng vô cùng xấu.
4/ Máu tụ
Thường xảy ra trong giờ đầu sau phá thai và có thể điều trị dễ dàng bằng
nong cổ tử cung và hút lại.
5/ Rách cổ tử cung
Hiếm gặp và thường lành tính, thường rách một phần cổ tử cung, chảy máu ít
và để lại một sẹo không quan trọng cho tương lai sản phụ khoa. Một số rất ít
cần phải may cầm máu và thường gặp khi gây mê. Các thống kê của Tổ chức Y tế
Thế giới là 0.1-1.18%.
6/ Sốc do đau
Xuất hiện thường nhất trong quá trình nong cổ tử cung. Nó được dự phòng dễ
dàng bằng một thuốc tiền mê, thuốc tê hoặc đơn giản nhất là thông tin chính
xác và quan tâm thăm hỏi người bệnh.
II. BIẾN CHỨNG THỨ PHÁT
1/ Thất bại
Thất bại là hiếm có : dưới 0.5 % trong hút thai và 4 % trong phá thai bằng
thuốc.
Có thể do phá thai quá
sớm ( điều hòa kinh nguyệt hay phá thai bằng thuốc mà không có kiểm tra sau
đó ), do thiếu sót về kỹ thuật hoặc do dị dạng tử cung. Khi đó cần đặt ra
việc hút lại dưới hướng dẫn của siêu âm.
2/ Sót nhau
Gây
rong huyết dây dưa, tử cung không co hồi về mặt lâm sàng và siêu âm thấy các
hình ảnh tăng âm. Các nghiên cứu ở Mỹ báo cáo tỷ lệ sót nhau là 0.75 %. Hút
- nạo lại được làm dưới hướng dẫn của siêu âm.
3/ Nhiễm trùng
Tần
số các biến chứng nhiễm trùng vào khoảng từ 0.5 % đến 12 % tuỳ vào kỹ thuật
vô trùng. Các biến chứng nhiễm trùng này có thể được biểu hiện ở một phản
ứng đơn giản là sốt, nhưng nó có thể là viêm nội mạc tử cung ( tử cung nhạy
cảm đau, tăng thân nhiệt ) mà nó có thể lan tỏa ra các cấu trúc lân cận (
viêm tấy dây chằng rộng, viêm phần phụ, viêm phúc mạc chậu ) hoặc qua đường
máu ( nhiễm trùng huyết ).
Lợi ích của kháng sinh dự
phòng thường quy là không bao giờ được chỉ ra dễ dàng và bất lợi khi chọn
lựa mầm bệnh và tình trạng nhiễm trùng. Kháng sinh dự phòng này dành cho
nhóm nguy cơ ( tiền căn mhiễm trùng vùng chậu, bệnh tim động mạch chủ).
4/ Aûnh hưởng trên vô
sinh sau này.
Tần
số vô sinh thứ phát do phá thai là rất khó đánh giá và nguy cơ cao ở phụ nữ
có thai lần đầu.
Vô sinh thường do nhiễm
trùng sau phá thai có khả năng dẫn đến tắc nghẽn vòi trứng hai bên hoặc gây
ra thai ngoài tử cung.
Dính buồng tử cung thường
gặp nhất sau nạo thai hơn là sau hút thai và chủ yếu là khi nạo lại trong
trường hợp sốt. Chẩn đoán bằng chụp X- quang buồng tử cung hoặc nội soi
buồng tử cung.
Tỷ lệ hở eo cổ tử cung
liên quan với sẩy thai muộn về sau hoặc sanh non hãy còn chưa chính xác.
Nguy cơ sẩy thai tự nhiên muộn hoặc sanh non tăng trong dân số đã có lần phá
thai, chủ yếu ở phụ nữ có thai lần đầu và nếu đãnong cổ tử cung quá số 12
mm.
5/Đồng miễn dịch
Đồng miễn dịch hóa thứ phát sau phá thai không còn được quan sát thấy kể từ
khi người ta tiêm gammaglobuline một cách có hệ thống cho các phụ nữ Rhésus
âm.
Tỷ lệ đồng miễn dịch hóa
Rhésus thứ phát sau phá thai khoảng 7% trong trường hợp không có huyết thanh
dự phòng.
6/ Biến chứng tâm thần
và tâm lý
Chúng có độ nặng và triệu chứng rất thay đổi. Thường có cảm giác tội lỗi sau
phá thai. Tỷ lệ hối tiếc vào khoảng 5% trong các thống kê của Mỹ. Song song,
một thai kỳ không cần thiết là nguồn gốc tấn công bà mẹ và có thể giao thoa
trên chất lượng phát triển của thai với sự tương quan giữa thái độ không tốt
của bà mẹ và tử vong chu sinh. Nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng diễn tiến
của các thai kỳ mà cần phải bỏ đã được giữ lại: 12-17% các trẻ này phải làm
mục tiêu của một sự mua bán hoặc làm con nuôi, với một tần số bệnh tâm thần
và hành vi phạm tội.
Các biểu hiện tâm thần
nặng có thể được quan sát trong trường hợp đặc biệt các bệnh nhân lọan tâm
thần (psychotique) và cần thiết có cách xử trí tâm thần dự phòng.
Tham khảo
từ:"Interruption volontaire de grossesse" của Dr. Erick CAMUS, Pr Israel
NISAND trong LA REVUE DU PRATICIEN Gynécologie- Obstétrique (Paris) 1999, 49
trang 11-13.