THAI SUY DINH DƯỠNG TRONG TỬ CUNG
PTS. BS LÊ DIỄM HƯƠNG
Thai suy dinh dưỡng trong tử cung thường xảy ra ở những người mẹ có bệnh như: tim, thận, thiếu máu, lao, suy nhược; nhất là hiện tượng nhiễm độc thai nghén, trường hợp lớn tuổi sinh con so hay sinh quá nhiều lần, là những yếu tố dễ gây suy dinh dưỡng cho thai trong tử cung. Khi ra đời trẻ con có cân nặng dưới 2.500 g thì tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong tử cung dao động từ 10% đến 20%. Đối với loại trẻ suy dinh dưỡng này, có thể phân chia ra 3 mức độ từ nhẹ đến nặng.
1. Loại nhẹ: Trẻ có chiều dài bình thường và cân nặng giảm ít, so với trẻ có câng nặng và tuổi thai tương ứng.
2. Loại trung bình: Trẻ có chiều dài và cân nặng giảm, vòng đầu bình thường.
3. Loại nặng: Trẻ có vòng đầu, chiều dài, và cân nặng đều giảm.
Theo nghiên cứu chi tiết của các nhà khoa học thì loại trẻ có vòng đầu bình thường là loại nhẹ nhất; thường là do các loại bệnh của mẹ như tăng huyết áp, nhiễm độc thai nghén thể nhẹ.
Loại trẻ này, khi phát triển trong bào thai, sự phân chia tế bào đã tương đối hoàn chỉnh, khối lượng tế bào bình thường, do đó vấn đề nuôi dưỡng không khó khăn lắm; nếu sống qua được giai đoạn sơ sinh và nuôi dưỡng đúng cách, thì sau này chúng sẽ phát triển tương đối bình thường về mặt tinh thần và vận động, mặc dù khi sinh chúng nhẹ cân.
Điều quan trọng là trong mức độ thiếu cân, cũng cần phân biệt: thiếu cân nhẹ từ 5% đến 15% so với cân nặng bình thường, không kể sụt cân sinh lý; thiếu cân trung bình từ 15% đến 25%; thiếu cân nặng: trên 30%. Do thiếu hụt về cân nặng và tầm vóc nên trong điều trị và chăm sóc sẽ có nhiều khó khăn hơn những trẻ khác.
Loại trẻ có vòng đầu nhỏ đã có biểu hiện giảm rõ rệt số lượng tế bào trong cơ quan, chủ yếu là tế bào não ngay trong bào thai. Do đó, nếu tình trạng trung bình thì trẻ có thể sống qua được giai đoạn sơ sinh, nhưng khi sinh trẻ thường bị ngạt, viêm phổi, chảy máu, giảm đường huyết. Sau này trẻ phát triển sẽ không bình thường, có khi chậm phát triển về tinh thần, chậm lớn và thậm chí còn di chứng thần kinh. Loại nặng có thể chết trong giai đoạn sơ sinh, thường thấy phối hợp ở những thai có dị tật bẩm sinh. Lâm sàng thấy trẻ có biểu hiện rất nặng, da khô nhăn nheo, vàng da, viêm gan, nhiễm trùng hô hấp. Đa hồng cầu, dung tích hồng cầu cao trong những ngày đầu có khi 60 - 70%, hiện tượng cô đặc máu là phổ biến. Trẻ chết vì ngạt, viêm phổi, hít nước ối, và nhiễm trùng nặng.
Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sinh non cũng như làm cho thai chậm lớn trong tử cung. Tỷ lệ thai chậm lớn trong tử cung so với tổng số sinh không cao lắm, chỉ 4 - 5%. Mấy năm gần đây, tỷ lệ thai chậm lớn và trẻ em sinh ra bị nhẹ cân, thiếu tháng so với tổng số trẻ ra đời đã có chiều hướng giảm hơn trước, nhưng so với số trẻ sinh ra có cân nặng dưới 2.500 g thì tỷ lệ chiếm tới 20 - 30%. Qua thống kê sơ bộ năm 1971 đến 1972 ở Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh tại Hà Nội là nơi tập trung nuôi trẻ sinh non của Thủ đô, tỷ lệ thai kém lớn trong tử cung xấp xỉ 15 - 20% so với trẻ có cân nặng lúc sinh dưới 2.500 g. Theo thống kê của Sở Y tế thì trẻ dưới 2.500 g ở thành phố Hồ Chí Minh khoảng 10%. Trong số 10% này, trẻ suy dinh dưỡng chiếm tới 20 - 30%. Ở Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ, tỷ lệ trẻ dưới 2.500 g những năm trước 1985 là hơn 20%, nhưng gần đây nhờ tăng cường quản lý thai nghén, hướng dẫn sản phụ về cách tự bảo vệ thai và có một vài chương trình giúp đỡ cho bà mẹ mang thai có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, nên tỷ lệ trẻ dưới 2.500 g giảm đáng kể, còn 10 - 13% trong số thai phụ tới sinh tại bệnh viện. Một số trẻ khác thiếu dinh dưỡng nặng có khi giảm hơn 20% cân nặng, thậm chí còn giảm hơn nữa lại thường xảy ra ở người có thai nhiều lần, mẹ mắc bệnh trường nhiễm như: tim, thận, tăng huyết áp, thiếu máu, nhiễm độc thai nghén nặng v.v...
Những yếu tố trên đều có thể đưa đến sự chậm lớn của thai mà nguồn gốc chính là do rối loạn dinh dưỡng của nhau thai, thêm vào đó sự tổn thương và rối loạn huyết động ở bánh nhau sẽ cản trở việc vận chuyển các chất dinh dưỡng nuôi thai làm cho đứa trẻ không thể lớn lên được. Những thí nghiệm trên súc vật cho thấy yếu tố cân nặng của mẹ cũng ảnh hưởng tới cân nặng của con. Người mẹ có chiều cao dưới 1,4m và cân nặng dưới 40kg có thể sinh con đủ tháng, nhưng luôn luôn dưới 2.500g những năm gần đây, nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy con muốn nặng trên 2.500g thì suốt thời kỳ mang thai mẹ phải tăng hơn 9kg. Tuy nhiên trên lâm sàng còn phối hợp với vấn đề thăm khám và những biểu hiện sinh lý bình thường của đứa trẻ. Một số nguyên nhân sau có thể ảnh hưởng tới sự phát triển thai.
Bệnh nhiễm trùng ở người mẹ
Người ta thường chú ý tới hiện tượng nhiễm trùng, nhất là siêu vi trùng xâm nhập vào người mẹ trong khi có thai 3 tháng đầu. Đó là nguyên nhân không những ảnh hưởng luôn cả sự kém phát triển của thai. Có thể xảy ra hiện tượng suy dinh dưỡng từ tuần thứ 20, khi tế bào nuôi lớn đệm và lớp đáy thoái triển. Khi đó siêu vi trùng tiềm tàng trong người mẹ dễ xâm nhập vào nhau thai và ảnh hưởng trực tiếp tới thai, làm ngừng trệ sự phát triển của tế bào. Những trường hợp nhiễm trùng như trên có khả năng gây thai dị dạng nhiều hơn. Hiện nay, các nhà khoa học còn đang tiếp tục nghiên cứu thêm về những bệnh lý này.
Dù sao những nhiễm trùng của người mẹ trong giai đoạn phát triển của thai cũng là một nguy cơ đe dọa cần chú ý.
Bệnh về nhau thai
Chủ yếu là tổn thương thật sự bánh nhau gây rối loạn huyết động và dẫn tới suy nhau thai. Nhau thai bị bệnh có thể thấy những hình thái như sau: có nhiều điểm tắc mạnh nhỏ, gai nhau không có mạch máu, hoặc tắc mạch, vôi hóa từng vùng của bánh nhau, hoặc xơ hóa trong những bệnh thiếu nội tiết, trường hợp nhiễm độc thai nghén kéo dài. Tình trạng nhau xơ hóa, gai nhau thoái hóa làm cho sự trao đổi sinh lý giữa mẹ và con bị giảm. Thai không phát triển được, suy mãn tính có thể gây chết trong bụng, hoặc chết gần ngày sinh.
Người ta dựa vào nghiên cứu lưu lượng máu ở nhau, thành phần nước ối, để tìm nguyên nhân bệnh tật từ người mẹ gây nên những biến chứng bất thường ở thai.
Thí nghiệm trên súc vật cho thấy sự cung cấp máu bị giảm thì tỷ lệ phân bào trong những cơ quan của thai cũng bị giảm, sự giảm tế bào trong giai đoạn tăng sinh sẽ làm cho con vật sau này có số lượng tế bào ít hơn con vật bình thường khác, và sự cản trở trong thời kỳ lớn sẽ làm cản trở kích thước tế bào. Do đó dựa trên những xét nghiệm của nước ối và kiểm tra lại bánh nhau khi sinh, có thể chúng ta chẩn đoán được thời gian nào gây tổn thương bánh nhau. Ngoài ra còn phải kể đến một vài trường hợp dị dạng bánh nhau: động mạch đơn độc hoặc dây rốn bám màng cũng làm cho tuần hoàn giữa mẹ và con bị cản trở.
Chế độ dinh dưỡng của người mẹ
Đây là một vấn đề tương đối quan trọng. Qua nhiều thí nghiệm, người ta thấy rằng ở hầu hết các động vật có vú, nếu khi có thai mà cho mẹ ăn uống kém, thì con sinh ra sẽ nhẹ cân. Sự rối loạn dinh dưỡng của người mẹ, đặc biệt là thiếu prôtein là một yếu tố đáng kể trong vấn đề kém phát triển thai trong tử cung. Sự tăng cân chậm của người mẹ trong 3 tháng cuối, hoặc tăng chậm dần từ tuần thứ 20 thường có sự liên quan tới sự sinh con thiếu cân.
Tất cả những chất dinh dưỡng có trong huyết tương của mẹ đều qua được màng nhau để nuôi đứa trẻ, trừ một số chất do bị cản trở, hủy hoại, biến chất, hoặc một số kháng thể không qua được màng nhau, vì vậy khả năng phòng bệnh của đứa trẻ càng kém, nhất là ở những đứa trẻ bản thân nó đã yếu saün khi còn trong bụng mẹ.
Ngoài ra, hiện tượng thiếu hụt về kim loại như sắt, đồng, kẽm, mangan, magie cũng gây tác hại xấu cho thai.
Ngoài các bệnh lý đã nêu trên như bệnh của mẹ, bệnh của bánh nhau, dinh dưỡng kém... cũng cần phải nói đến vấn đề dinh dưỡng đúng cách. Nếu người mẹ có chế độ dinh dưỡng đầy đủ rồi và khỏe mạnh mà thai vẫn phát triển chậm, thì phải chú ý tới sự cản trở vận chuyển các chất sang con và chắc chắn là bánh nhau không bình thường. Điều cơ bản ở đây không phải là đơn thuần bồi dưỡng cho mẹ mà chủ yếu là cần chữa trị cho mẹ.
Do những yếu tố nói trên, để đề phòng và hạn chế bớt hiện tượng này, thầy thuốc có trách nhiệm hướng dẫn cho thai phụ có chế độ ăn uống thích hợp để nuôi dưỡng thai, cung cấp đầy đủ số lượng đạm và các chất kim loại, muối khoáng, để cơ thể có đầy đủ chất dự trữ vận chuyển sang cho thai nhất là trong 3 tháng cuối thời kỳ thai nghén.
Cần phải thường xuyên tích cực quản lý bệnh tật của người mang thai trong thời gian thai nghén, để phát hiện và điều trị kịp thời những hiện tượng rối loạn chuyển hóa của nhau thai.