NHỮNG ĐIỀU CÁC BỆNH NHÂN GOUT NÊN
LÀM VÀ NÊN TRÁNH
PTS. BS LÊ ANH THƯ
Bệnh viện Chợ Rẫy
Bệnh Gout (bệnh thống phong) là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa
purin ở người, nguồn gốc từ việc tăng tiêu hủy các acid nhân của các tế bào
và/hoặc giảm thải acid uric ra ngoài gây tăng acid uric trong máu, mà hậu
quả là gây các đợt viêm khớp cấp, gây các tophy, gây sỏi thận, gây suy thận.
Bệnh Gout có thể được kiểm soát tốt bằng chế độ thuốc men đều đặn và liên
tục, phối hợp với chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý. Vì là một bệnh diễn tiến
kéo dài, phải điều trị liên tục để tránh tái phát, nên người bệnh cần phải
được theo dõi lâu dài bởi các bác sĩ chuyên khoa. Sự hiểu biết về bệnh và
việc tuân thủ điều trị của người bệnh có vai trò rất quan trọng đối với kết
quả điều trị.
Bệnh Gout là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa purin ở người,
nguồn gốc từ việc tăng tiêu hủy các acid nhân của các tế bào và/hoặc giảm
bài xuất acid uric qua thận, gây tăng acid uric trong máu, mà hậu quả là gây
các đợt viêm khớp cấp, gây các tophy, gây sỏi thận, gây suy thận. Bệnh Gout
có những đặc điểm lâm sàng khá đặc biệt, tương đối dễ nhận biết, nếu được
quan sát kỹ (đặc biệt ở những năm đầu của bệnh) như:
·
Thường gặp ở nam giới (trên 95%), khỏe mạnh, mập mạp
·
Thường bắt đầu vào tuổi 35 đến 45 (cuối thập niên thứ 3 và đầu thập
niên thứ 4)
·
Khởi bệnh đột ngột, diễn biến từng đợt, giữa các đợt đau các khớp
hoàn toàn khỏi (những năm đầu)
·
Vị trí bắt đầu thường là các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón I bàn
chân (70%)
·
Tính chất sưng nóng đỏ đau dữ dội, đột ngột ở một khớp, không đối
xứng và có thể tự khỏi sau 3 - 7 ngày. Ở giai đoạn muộn biểu hiện ở nhiều
khớp, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục (tophy) ở nhiều nơi đặc biệt
quanh các khớp. Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như:
sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu màng não (cổ cứng, ói...)
·
Có thể có các bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu...
kèm theo.
Việc điều trị bệnh nhằm mục đích làm giảm đau giảm viêm (khi viêm
cấp) giảm và duy trì lượng acid uric máu ở mức bình thường để khỏi tái phát
viêm khớp, bảo vệ thận khỏi sỏi thận và suy chức năng thận.
1. Về chế độ ăn uống
Để làm giảm acid uric máu cần hạn chế ăn các thức ăn chứa nhiều purin (chứa
nhiều acid nhân tế bào) như tim, gan, thận, óc, trứng lộn, cá chích, cá đối.
Đây là những loại thức ăn giàu đạm.
Tuy nhiên, chất đạm là một thành phần quan trọng trong dinh dưỡng của mọi
lứa tuổi đặc biệt ở người có tuổi. Vì vậy, không thể loại bỏ hoàn toàn chất
đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày nhưng cũng đừng vượt quá nhu cầu thiết yếu
về đạm của cơ thể.
Ơû người lớn nhu cầu về đạm là 1 g/kg trọng lượng/ngày (nhu cầu này sẽ tăng
trong một số trạng thái cơ thể đặc biệt: có thai, gắng sức, bị bệnh.).
Các loại thức ăn: tôm, cua, sò, ốc, hến, ếch, cá nước ngọt, thịt chim,
trứng, đạm thực vật, cá biển nói chung. đều không cần kiêng tuyệt đối. Miễn
sao, số lượng đạm từ các thức ăn đó không vượt quá nhu cầu cần thiết hàng
ngày.
Không uống rượu, hạn chế uống bia, không ăn uống quá mức.
Chân giò heo, là loại thức ăn chứa nhiều mỡ (lipid), không có lợi cho sức
khỏe người có tuổi, không nên ăn thường xuyên, đặc biệt khi người bệnh có
kèm rối loạn các thành phần của lipid máu (Cholesterol, Triglyceride, b
Lipoproteine, HDL-C, LDL-C, VLDL-C.)
Nên tăng cường ăn rau xanh, uống nhiều nước, uống các loại nước khoáng có
nhiều gas (bicarbonate) vì sẽ làm kiềm hóa nước tiểu và tăng mức lọc cầu
thận, thuận lợi cho việc thải bớt acid uric ra ngoài.
Bảng dưới đây là lượng đạm có trong một số thực phẩm thường dùng
Thực phẩm (100 g) |
Lượng đạm (Gam) |
Sữa bò tươi |
3,9 |
Sữa đặc có đường |
8,1 |
Sữa chua |
3,7 |
Sữa đậu nành |
3,9 |
Phomat |
10-20 |
Trứng gà tươi |
11,6 |
Trứng vịt tươi |
14,2 |
Thịt bò nạc |
20 |
Thịt trâu nạc |
21,9 |
Thịt thỏ nạc |
21,5 |
Thịt lợn nạc |
19 |
Thịt gà nạc |
22,4 |
Thịt vịt nạc |
17,8 |
Thịt ngỗng nạc |
18,4 |
Thịt ếch |
20,0 |
Thịt cá lóc |
18,2 |
Thịt cá chép |
16,5 |
Thịt cá trê |
16,5 |
Thịt lươn |
20,0 |
Thịt tôm |
18,4 |
Thịt cua biển |
17,5 |
Đậu hũ |
10,9 |
Đậu phọng (lạc) |
27,5 |
Đậu nành |
34 |
Đậu xanh |
23,4 |
Mè (vừng) |
20,1 |
2. Về việc sử dụng thuốc
Các thuốc kháng viêm giảm đau chỉ dùng khi có cơn viêm khớp, nhằm cắt cơn
viêm càng sớm càng tốt. Càng ít dùng càng tốt vì tác dụng phụ của thuốc sẽ
tăng theo số lượng thuốc dùng, thời gian dùng và tuổi của người bệnh.
Để điều trị tận gốc các hậu quả (gây các đợt viêm khớp cấp, gây sỏi thận,
gây suy thận.) của căn bệnh này cần phải giảm bớt lượng acid uric máu bằng
thuốc ức chế tổng hợp acid uric và/ hoặc các thuốc làm tăng thải acid uric
ra ngoài, các thuốc làm giảm acid uric máu sẽ phải dùng lâu dài (nhiều năm),
dùng liên tục, không ngắt quãng. Liều lượng và loại thuốc do các bác sĩ điều
trị chọn lựa và điều chỉnh tùy theo lượng acid uric máu, tuổi và tình trạng
sức khỏe của người bệnh. Mục tiêu của việc dùng thuốc này là giảm acid uric
máu tới mức bình thường và duy trì mức đó lâu dài, bảo đảm không bị lắng
đọng acid uric ở các cơ quan: khớp (gây tái phát viêm khớp), thận (gây sỏi
thận hay suy thận)...
Allopurinol (biệt dược là Zyloric) là thuốc rất thường dùng để giảm acid
uric máu, vì thuốc ức chế tổng hợp acid uric.
Ngoài ra có thể dùng các thuốc tăng thải acid uric qua đường thận như
Probenecide, Sulfinpyrazone, thuốc làm tan sỏi Urate (Cốm Piperazine Midy),
thuốc làm tiêu hủy acid Uric (Uricozyme). nhưng cần chú ý tới các chống chỉ
định của thuốc.
Riêng ở người trên 60 tuổi, Allopurinol là thuốc thường được chọn lựa để
làm giảm acid uric máu.
Các thuốc làm giảm acid uric đều đòi hỏi phải dùng liên tục nhiều năm vì
đây chính là việc phòng ngừa bệnh tái phát.
Lượng acid uric máu phải được giảm tới mức bình thường (dưới 5 mg% hay dưới
300 (mol/L) và duy trì ở mức này bằng thuốc và chế độ ăn uống. Việc theo dõi
định kỳ lượng acid uric trong máu, chức năng gan, thận là rất cần thiết để
các thầy thuốc điều chỉnh liều lượng thuốc cho phù hợp và theo dõi ảnh hưởng
của thuốc với cơ thể người bệnh.
Khi đang dùng Allopurinol
- Cố gắng tránh sử dụng các kháng sinh nhóm ( Lactam (nhóm Penicillines,
đặc biệt là Ampicilline và Amoxyclin) vì Allopurinol làm tăng khả năng dị
ứng của các kháng sinh này lên nhiều lần).
- Thận trọng khi dùng các thuốc ức chế men chuyển (đặc biệt là Captopril)
vì thuốc này làm tăng khả năng dị ứng với Allopurinol.
- Không nên dùng Corticosteroids và Aspirin dài ngày vì hai loại thuốc này
ảnh hưởng không tốt đến bệnh và gây tăng acid uric máu.
- Không dùng các thuốc lợi tiểu thiazide vì cản trở thải acid uric qua
đường tiểu và tăng khả năng dị ứng Allopurinol.
Khi cần sử dụng thuốc hạ sốt người bệnh có thể dùng là Paracetamol.
Khi bị các viêm nhiễm cần điều trị kháng sinh, người bệnh nên báo cho bác
sĩ biết mình đang dùng Allopurinol và các bác sĩ sẽ cho dùng kháng sinh
thuộc các nhóm khác như: Erythromycine, Rovamycin, Tetracycline, Bactrim,
Ciprofloxacine, Pefloxacin, Ofloxacin, Norfloxacin,.
Các thuốc lợi tiểu khác, lợi tiểu đông, nam dược đều có thể dùng. Các thuốc
lợi tiểu thảo dược thường làm tăng lưu lượng dịch tới thận, tăng mức lọc cầu
thận, làm kiềm hóa nước tiểu, không thải muối. nên thuận lợi cho việc thải
acid uric, (đặc biệt là lá xakê). Có thể kết hợp với các thuốc này để tăng
cường và củng cố kết quả điều trị. Nhiều trường hợp còn làm giảm bớt liều
thuốc phải sử dụng
3. Chế độ sinh hoạt
Ngâm chân nước nóng hàng tối là có ích, có thể làm thường xuyên, nhưng
không nên dùng nước quá nóng, cũng không nên ngâm lúc đang bị viêm cấp.
Tắm sông, tắm biển là rất tốt, điều này hoàn toàn khác với việc dầm mưa
lạnh hay bị lạnh đột ngột.
Tránh gắng sức, tránh căng thẳng, tránh thức quá khuya, tránh lạnh, tránh
dầm mưa lạnh.
Cần duy trì một chế độ tập luyện, vận động thường xuyên, vừa sức.
Khi bệnh chuyển sang mãn tính cần có chế độ tập luyện thường xuyên, kết hợp
với vật lý trị liệu và phục hồi chức năng để tránh teo cơ, cứng khớp và hạn
chế biến dạng khớp.
Kết luận: Ở nước ta, bệnh Gout ngày càng đã trở nên phổ biến. Mọi
người cần cảnh giác với các hiện tượng sưng đau đột ngột, bất thường ở ngón
chân, bàn chân, cổ chân... đặc biệt ở nam giới tuổi trung niên. Khi có bệnh
cần tới các thầy thuốc chuyên khoa sớm để được chẩn đoán xác định và điều
trị kịp thời. Lúc đầu bệnh tưởng như có thể khỏi hẳn trong một thời gian dài
nhưng các rối loạn bên trong thì không thể khỏi và trước sau thế nào cũng sẽ
biểu hiện và nặng dần lên. Việc phát hiện bệnh sớm, điều trị đúng và sớm,
duy trì một nếp sinh hoạt, ăn uống phù hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc
kiểm soát và phòng ngừa bệnh, tránh các hậu quả xấu ở khớp, ở thận và ở các
cơ quan liên quan đặc biệt là tim mạch.