PHƯƠNG PHÁP TỰ THÔNG TIỂU
PGĐ BS. NGUYỄN VĂN HIỆP
BS. NGUYỄN THÀNH NHƯ
Bệnh viện Bình Dân
MỞ ĐẨU
Thông tiểu là đưa một ống thông qua niệu đạo vào bàng quang để rút nước
tiểu ra. Thông tiểu được áp dụng trong những trường hợp vì một lí do gì đó
mà người bệnh không tự tiểu bình thường được, ví dụ ở bệnh nhân hôn mê, bệnh
nhân bị bí tiểu do liệt cơ bàng quang.
Lâu nay việc thông tiểu chỉ được thực hiện một cách vô trùng bởi nhân viên
y tế nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng. Tuy vậy, gần đây phương pháp tự
thông tiểu được áp dụng cho những người cần được thông tiểu dài hạn đã mang
lại thành công to lớn vì dễ thực hiện, an toàn (ít bị nhiễm trùng niệu hơn
mang thông liên tục) và rất rẻ tiền.
VÀI DÒNG LỊCH SỬ CỦA PHƯƠNG PHÁP TỰ THÔNG TIỂU
Tự thông tiểu được Bác sĩ Lapides khởi xướng lần đầu tiên vào năm 1972. Tự
thông tiểu (Autosondage - tiếng Pháp) hay còn gọi là thông tiểu sạch - cách
quãng (Clean Intermittent Catheterization - tiếng Anh), có nghĩa là người
bệnh tự mình đặt thông lấy, hay thân nhân làm giúp nếu là trẻ em, chỉ cần
ống thông sạch chứ không cần vô trùng và phải thực hiện nhiều lần trong 1
ngày.
Điều lâu nay làm các bác sĩ lo ngại là nhiễm trùng niệu do ống thông đưa vi
trùng vào cơ thể. Theo Bác sĩ Lapides, có 2 yếu tố trong sự nhiễm trùng của
cơ thể là sự xâm nhập của vi khuẩn và sự đề kháng của cơ thể, mà trong đó sự
đề kháng của cơ thể là yếu tố quan trọng hơn nhiều. Khi thông tiểu thì việc
ống thông đưa vi trùng vào bàng quang là điều không thể tránh khỏi, nhưng
chỉ khi sự đề kháng giảm thì vi khuẩn mới có cơ hội phát triển và gây ra
nhiễm trùng. Sự đề kháng của cơ thể tại bàng quang sẽ giảm khi lượng máu đến
bàng quang bị giảm. Điều này xảy ra khi bàng quang quá căng. Để tránh bàng
quang quá căng, cần giữ cho dung tích bàng quang không tăng quá 350-400ml.
Mặt khác sự tăng sinh của vi khuẩn tới mức đủ gây bệnh, đòi hỏi vi khuẩn
phải ở trong bàng quang ít nhất là 4 giờ để đạt tới nồng độ cần thiết gây
nhiễm trùng trên lâm sàng. Do đó nếu thông tiểu được thực hiện đều đặn mỗi 4
giờ thì chỉ cần sử dụng ống thông sạch, không cần vô trùng là có thể tránh
được nhiễm trùng.
NHỮNG BỆNH NHÂN NÀO CẨN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TỰ THÔNG TIỂU?
Chính bác sĩ sẽ quyết định bệnh nhân nào được áp dụng phương pháp tự thông
tiểu.
Tự thông tiểu được áp dụng cho những người cần được thông tiểu kéo dài. Đó
là các bệnh nhân bị tiểu khó hay không tiểu được do cơ bàng quang không co
bóp được, bị nhão. Những trường hợp bàng quang co thắt cũng áp dụng được
phương pháp này sau khi đã cho bệnh nhân dùng thuốc làm nhão cơ bàng quang,
hay bằng phẫu thuật làm nới rộng bàng quang bằng ruột non.
Trường hợp bệnh nhân bị chấn thương cột sống, ống thông niệu đạo tại chỗ
chỉ nên giữ vài ngày trong giai đoạn đa niệu. Sau đó nên chuyển sang thông
tiểu sạch-cách quãng, ban đầu do nhân viên y tế thực hiện, sau đó sẽ do bệnh
nhân tự làm.
KỸ THUẬT THỰC HIỆN
Không cần đeo găng vô trùng, không cần trải khăn che phủ khi đặt
thông, không cần dùng các dung dịch sát trùng.
Đầu tiên bệnh nhân được thầy thuốc hướng dẫn cách đặt thông. Sau đó bệnh
nhân sẽ tự đặt thông, dưới sự theo dõi của thầy thuốc vài lần, rồi họ sẽ tự
làm lấy tại nhà. Đối với trẻ em hay người không thể cầm ống thông đặt được
do tay yếu, tay run thì thân nhân sẽ làm thay.
Điều kiện trước khi bắt đầu là không có nhiễm trùng niệu và không có
tắc nghẽn đường tiểu dưới (niệu đạo). Bệnh nhân phải uống nhiều nước để
lượng nước tiểu trong 1 ngày là khoảng 2 lít .
Tiến hành thông tiểu mỗi 4-6 giờ/lần.
Dụng cụ: Nước, xà bông, bô nhỏ đựng nước tiểu, ống thông sạch và
vaseline bôi trơn. Ở Bệnh viện Bình Dân chúng tôi dùng thông Oxy số 12 cho
người lớn và số 8 cho trẻ em, dùng gel Xylocaine để bôi trơn.
Trước khi đặt thông phải rửa tay thật sạch trong 5 phút với nuớc và xà
bông, rửa bộ sinh dục cũng với nước và xà bông. Đặt ống thông trên 1 khăn
sạch, bôi gel Xylocaine lên 10 cm đầu của ống.
Cách đặt thông tiểu đối với phụ nữ
- Ngồi xổm, ban đầu nên đặt 1 cái gương nhỏ bên dưới để dễ nhận ra lỗ tiểu.
- Hai ngón tay trỏ và giữa vạch môi bé của âm hộ ra để thấy rõ lỗ niệu đạo,
nằm ngay bên trên âm đạo.
- Bàn tay thuận sẽ cầm ống thông, cách đầu ống 4-5 cm, đưa đầu thông về lỗ
niệu đạo. Nhẹ nhàng đẩy ống thông vào bàng quang cho đến khi ra nước tiểu
(khoảng 5 cm). Đẩy ống thông vào sâu thêm 2-3 cm. Khi nước tiểu ra hết thì
rút nhẹ thông ra rồi lại đẩy nhẹ vào 1-2 lần cho thoát hết hẳn nước tiểu.
Sau đó rút thông ra.
- Ống thông sẽ đem rửa dưới vòi nước và xà bông cho sạch, lau khô, cất vào
bao nylon khô và sạch, có thể dùng cho lần sau miễn là thông còn mềm mại,
không bị cứng, cong queo, thay đổi màu. Một ống thông như vậy có thể dùng
trong 2-3 ngày.
- Sau vài lần bệnh nhân sẽ quen và không cần dùng gương nữa, cũng như có
thể ngồi trên bàn cầu để đặt thông.
Cách đặt thông tiểu đối với đàn ông
- Kéo dương vật thẳng đứng lên.
- Bàn tay thuận cầm ống thông đưa nhẹ nhàng vào niệu đạo, đẩy cho tới khi
ra nước tiểu (khoảng 12-15 cm), đẩy ống thông vào thêm 2-3 cm. Khi đẩy ống
thông tới vị trí của tiền liệt tuyến, có thể gặp khó khăn, cần thở sâu nhẹ
nhàng, giãn cơ bụng và tiếp tục đẩy thông vào. Khi nước tiểu ra hết thì rút
nhẹ thông ra rồi đẩy vào 1-2 lần cho bảo đảm là nước tiểu đã thoát ra hết.
Rút thông ra. Xử lí ống thông như đã viết ở trên.
Cách đặt thông tiểu đối với trẻ em
Đặt bé nằm ngửa, 2 chân dạng, đầu gối gấp, thân nhân (cha hay mẹ) sẽ đặt
thông cho bé theo kỹ thuật đã mô tả bên trên. Khi bé có thể tự làm được
(khoảng 10 tuổi) thì sẽ tập cho bé tự đặt thông.
Theo dõi
Không nên quá lo lắng vấn đề nhiễm trùng nước tiểu. Các xét nghiệm tế bào -
vi khuẩn trong nước tiểu là vô ích. Chỉ cần bệnh nhân theo dõi độ trong của
nước tiểu, nếu nước tiểu hơi đục thì chỉ cần uống nhiều nước hơn và thông
tiểu nhiều lần hơn. Chỉ phân tích tế bào - vi khuẩn nước tiểu, cũng như làm
kháng sinh đồ để sử dụng kháng sinh thích hợp khi có triệu chứng lâm sàng,
có sốt.
Không nên sử dụng bất kỳ kháng sinh dự phòng nào
Các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng các loại thuốc sát trùng đường tiểu để
dự phòng nhiễm trùng (như nitrofurantoin), chỉ làm cho nhiễm trùng xảy ra do
nhiễm các vi trùng khó trị như Klebsiella spp. , Pseudomonas spp. vì vi
khuẩn Escherichia coli, loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng niệu, đã bị suy
thoái do thuốc dự phòng.
Tình trạng nhiễm khuẩn niệu kéo dài (bacteriurie) mà không có triệu chứng
lâm sàng thì không cần điều trị kháng sinh và vẫn tiếp tục phương pháp tự
thông tiểu.
Ở đàn ông, do đẩy thông quá nhanh vào niệu đạo, có khi gây xuất huyết niệu
đạo. Khi đó phải ngưng tự thông tiểu.
Kết luận
Sự ứ đọng nước tiểu trong bàng quang ở bệnh nhân có bàng quang thần kinh là
yếu tố đưa đến nhiễm trùng niệu, ảnh hưởng xấu lên thận và gây hư hại thận.
Ống thông lưu tại chỗ không giúp giảm bớt tỉ lệ nhiễm trùng, chưa kể chi phí
cao, phức tạp vì mỗi lần thay thông phải do nhân viên y tế thực hiện. Tự
thông tiểu hay thông tiểu sạch - cách quãng là 1 kỹ thuật đơn giản, rẻ tiền,
chống được nhiễm trùng niệu, thật sự là 1 cuộc cách mạng. Bệnh nhân tự chăm
sóc lấy mình, đặc biệt hữu ích cho bệnh nhân ở nơi xa hẻo lánh.